Các phương pháp chế biến tinh dầu.
Dựa
trên cách thực hành, người ta chia các phương pháp sản xuất tinh dầu ra
làm bốn loại: cơ học, tẩm trích, hấp thụ và chưng cất hơi nước.
Nhưng dù có tiến hành theo bất cứ phương pháp nào, quy trình sản xuất đều có những điểm chung sau đây:
- Tinh dầu thu được phải có mùi thơm tự nhiên như nguyên liệu.
- Quy trình khai thác phải phù hợp nguyên liệu.
- Tinh dầu phải được lấy triệt để khỏi nguyên liệu, với chi phí thấp nhất.
Nguyên tắc ly trích của tất cả các phương pháp nói trên đều dựa vào những đặc tính của tinh dầu như:
- Dễ bay hơi.
- Lôi cuốn theo hơi nước ở nhiệt độ dưới 100
oC.
- Hòa tan dễ dàng trong dung môi hữu cơ.
- Dễ bị hấp thu ngay ở thể khí.
1. PHƯƠNG PHÁP TẨM TRÍCH:
1.1 TẨM TRÍCH BẰNG DUNG MÔI DỄ BAY HƠI: Phương pháp này có nhiều ưu điểm vì tiến hành ở nhiệt độ phòng, nên thành phần hóa học của tinh dầu ít bị thay đổi.
Phương pháp này không những được áp dụng để ly trích cô kết (
concrete)
từ hoa mà còn dùng để tận trích khi các phương pháp khác không ly trích
hết hoặc dùng để ly trích các loại nhựa dầu (oleoresin) gia vị.
1.1.1 Nguyên tắc: Dựa trên hiện tượng thẩm thấu, khuếch tán và hòa tan của tinh dầu có trong các mô cây đối với các dung môi hữu cơ.
1.1.2 Dung môi: Yếu
tố quan trọng nhất cho sự thành công của phương pháp này là phẩm chất
và đặc tính của dung môi sử dụng, do đó dung môi dùng trong tẩm trích
cần phải đạt được những yêu cầu sau đây:
- Hòa tan hoàn toàn và nhanh chóng các cấu phần có mùi thơm trong nguyên liệu.
- Hòa tan kém các hợp chất khác như sáp, nhựa dầu có trong nguyên liệu.
- Không có tác dụng hóa học với tinh dầu.
- Không biến chất khi sử dụng lại nhiều lần.
-
Hoàn toàn tinh khiết, không có mùi lạ, không độc, không ăn mòn thiết
bị, không tạo thành hỗn hợp nổ với không khí và có độ nhớt kém.
-
Nhiệt độ sôi thấp vì khi chưng cất dung dịch ly trích để thu hồi dung
môi, nhiệt độ sôi cao sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tinh dầu. Điểm sôi của
dung môi nên thấp hơn điểm sôi của cấu phần dễ bay hơi nhất trong tinh
dầu.
- Ngoài ra, cần có thêm những yếu tố phụ khác như: giá thành thấp, nguồn cung cấp dễ tìm, …
Thường
thì không có dung môi nào thỏa mãn tất cả những điều kiện kể trên.
Người ta sử dụng cả dung môi không tan trong nước như: dietil eter, eter
dầu hỏa, hexan, cloroform … lẫn dung môi tan trong nước như: etanol,
aceton … Trong một số trường hợp cụ thể, người ta còn dùng một hỗn hợp
dung môi.
1.1.3 Quy trình tẩm trích: Phương
pháp ly trích này thích hợp cho các nguyên liệu có chứa lượng tinh dầu
không lớn lắm hoặc có chứa những cấu phần tan được trong nước và không
chịu được nhiệt độ quá cao. Quy trình kỹ thuật gồm các giai đoạn sau
đây:
-
Tẩm trích:
nguyên liệu được ngâm vào dung môi trong bình chứa. Trong một số trường
hợp, để gia tăng khả năng ly trích, nguyên liệu cần được xay nhỏ trước.
Hỗn hợp nguyên liệu và dung môi cần được xáo trộn đều trong suốt thời
gian ly trích. Nên khảo sát trước xem việc gia nhiệt có cần thiết hay
không, nếu cần, cũng không nên gia nhiệt quá 50
oC để không ảnh hưởng đến mùi thơm của sản phẩm sau này.
-
Xử lý dung dịch ly trích:
sau khi quá trình tẩm trích kết thúc, dung dịch ly trích được lấy ra và
có thể thay thế bằng dung môi mới sau một khoảng thời gian nhất định,
tùy theo nguyên liệu. Tách nước (nếu có) ra khỏi dung dịch, rồi làm khan
bằng Na
2SO
4 và lọc. Dung môi phải được thu hồi ở
nhiệt độ càng thấp càng tốt để tránh tình trạng sản phẩm bị mất mác và
phân hủy. Do đó, nên loại dung môi ra khỏi sản phẩm bằng phương pháp
chưng cất dưới áp suất kém (cô quay). Dung môi thu hồi có thể dùng để ly
trích lần nguyên liệu kế tiếp.
-
Xử lý sản phẩm ly trích:
sau khi thu hồi hoàn toàn dung môi, sản phẩm là một chất đặc sệt gồm có
tinh dầu và một số hợp chất khác như nhựa, sáp, chất béo, cho nên cần
phải tách riêng tinh dầu ra. Chất đặc sệt này đem đi chưng cất bằng hơi
nước để tách riêng tinh dầu ra. Tinh dầu có mùi thơm tự nhiên, nhưng
khối lượng thu được kém, ngoài ra tinh dầu này có chứa một số cấu phần
thơm có nhiệt độ sôi cao nên có tính chất định hương rất tốt.
-
Tách dung dịch từ bã:
sau khi tháo hết dung dịch ly trích ra khỏi hệ thống, trong bã còn chứa
một lượng dung dịch rất lớn (khoảng 20 – 30% lượng dung môi ly trích).
Phần dung dịch còn lại nằm trong nguyên liệu thường được lấy ra bằng
phương pháp chưng cất hơi nước (trường hợp dung môi không tan trong
nước), hoặc ly tâm, lọc ép (trường hợp dung môi tan trong nước). Sau đó
dung dịch này cũng được tách nước, làm khan và nhập chung với dung dịch
ly trích.
Chất
lượng thành phẩm và hiệu quả của phương pháp ly trích này phụ thuộc chủ
yếu vào dung môi dùng để ly trích. Để đạt kết quả tốt thì dung môi sử
dụng phải thoả mãn được các yêu cầu đã được trình bày ở trên.
Vì
dung môi dễ bay hơi nên chúng ta cần phải lưu ý đến tỉ lệ thất thoát
dung môi trong quy trình ly trích vì việc này có thể ảnh hưởng rất lớn
đến giá thành sản phẩm.
Trong
điều kiện phòng thí nghiệm, khi muốn tiến hành phương pháp tẩm trích
với dung môi dễ bay hơi, chúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp truyền
thống như khuấy từ ở nhiệt độ phòng hoặc đun – khuấy từ (kèm ống hoàn
lưu) hay phương pháp dùng Soxhlet. Ngoài ra, cùng với sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của “hóa học xanh”, mà ngày nay, chúng ta còn áp dụng các
phương pháp mới như là: tẩm trích có sự hỗ trợ của siêu âm và vi sóng.
1.1.4 Ưu và khuyết điểm: -
Ưu điểm:
sản phẩm thu được theo phương pháp này thường có mùi thơm tự nhiên.
Hiệu suất sản phẩm thu được thường cao hơn các phương pháp khác.
-
Khuyết điểm: - yêu cầu cao về thiết bị; - thất thoát dung môi; - quy trình tương đối phức tạp.
2. PHƯƠNG PHÁP CHƯNG CẤT HƠI NƯỚC: Phương
pháp này dựa trên sự thẩm thấu, hòa tan, khuếch tán và lôi cuốn theo
hơi nước của những hợp chất hữu cơ trong tinh dầu chứa trong các mô khi
tiếp xúc với hơi nước ở nhiệt độ cao. Sự khuếch tán sẽ dễ dàng khi tế
bào chứa tinh dầu trương phồng do nguyên liệu tiếp xúc với hơi nước bão
hòa trong một thời gian nhất định. Trường hợp mô thực vật có chứa sáp,
nhựa, acid béo chi phương dây dài thì khi chưng cất phải được thực hiện
trong một thời gian dài vì những hợp chất này làm giảm áp suất hơi chung
của hệ thống và làm cho sự khuếch tán trở nên khó khăn.
2.1 Lý thuyết chưng cất: Chưng
cất có thể được định nghĩa là: ”Sự tách rời các cấu phần của một hỗn
hợp nhiều chất lỏng dựa trên sự khác biệt về áp suất hơi của chúng”.
Trong trường hợp đơn giản, khi chưng cất một hỗn hợp gồm 2 chất lỏng
không hòa tan vào nhau, áp suất hơi tổng cộng là tổng của hai áp suất
hơi riêng phần. Do đó, nhiệt độ sôi của hỗn hợp sẽ tương ứng với áp suất
hơi tổng cộng xác định, không tùy thuộc vào thành phần bách phân của
hỗn hợp, miễn là lúc đó hai pha lỏng vẫn còn tồn tại. Nếu vẽ đường cong
áp suất hơi của từng chất theo nhiệt độ, rồi vẽ đường cong áp suất hơi
tổng cộng, thì ứng với một áp suất, ta dễ dàng suy ra nhiệt độ sôi tương
ứng của hỗn hợp và nhận thấy là nhiệt độ sôi của hỗn hợp luôn luôn thấp
hơn nhiệt độ sôi của từng hợp chất. Thí dụ, ở áp suất 760 mmHg nước sôi
ở 100
oC và benzen sôi ở 80
oC và chúng là hai chất lỏng không tan vào nhau. Thực hành cho thấy, nếu đun hỗn hợp này dưới áp suất 760 mmHg nó sẽ sôi ở 69
oC cho đến khi nào còn hỗn hợp hai pha lỏng với bất kì tỉ lệ nào. Giản đồ nhiệt độ sôi theo áp suất cho thấy, tại 69
oC, áp suất hơi của nước là 225 mmHg và benzen là 535 mmHg.
Chính
vì đặc tính làm giảm nhiệt độ sôi này mà từ lâu phương pháp chưng cất
hơi nước là phương pháp đầu tiên dùng để tách tinh dầu ra khỏi nguyên
liệu thực vật.
2.2 Những ảnh hưởng chính trong sự chưng cất hơi nước: 2.2.1 Sự khuếch tán: Ngay
khi nguyên liệu được làm vỡ vụn thì chỉ có một số mô chứa tinh dầu bị
vỡ và cho tinh dầu thoát tự do ra ngoài theo hơi nước lôi cuốn đi. Phần
lớn tinh dầu còn lại trong các mô thực vật sẽ tiến dần ra ngoài bề mặt
nguyên liệu bằng sự hòa tan và thẩm thấu. Von Rechenberg đã mô tả quá
trình chưng cất hơi nước như sau: “Ở nhiệt độ nước sôi, một phần tinh
dầu hòa tan vào trong nước có sẵn trong tế bào thực vật. Dung dịch này
sẽ thẩm thấu dần ra bề mặt nguyên liệu và bị hơi nước cuốn đi. Còn nước
đi vào nguyên liệu theo chiều ngược lại và tinh dầu lại tiếp tục bị hòa
tan vào lượng nước này. Quy trình này lặp đi lặp lại cho đến khi tinh
dầu trong các mô thoát ra ngoài hết.
Như
vậy, sự hiện diện của nước rất cần thiết, cho nên trong trường hợp
chưng cất sử dụng hơi nước quá nhiệt, chú ý tránh đừng để nguyên liệu bị
khô. Nhưng nếu lượng nước sử dụng thừa quá thì cũng không có lợi, nhất
là trong trường hợp tinh dầu có chứa những cấu phần tan dễ trong nước.
Ngoài
ra, vì nguyên liệu được làm vỡ vụn ra càng nhiều càng tốt, cần làm cho
lớp nguyên liệu có một độ xốp nhất định để hơi nước có thể đi xuyên
ngang lớp này đồng đều và dễ dàng.
Vì
các cấu phần trong tinh dầu được chưng cất hơi nước theo nguyên tắc nói
trên cho nên thông thường những hợp chất nào dễ hòa tan trong nước sẽ
được lôi cuốn trước. Thí dụ, khi chưng cất hơi nước hạt caraway nghiền
nhỏ và không nghiền, đối với hạt không nghiền thì carvon (nhiệt độ sôi
cao nhưng tan nhiều trong nước) sẽ ra trước, còn limonen (nhiệt độ sôi
thấp, nhưng ít tan trong nước) sẽ ra sau. Nhưng với hạt caraway nghiền
nhỏ thì kết quả chưng cất ngược lại.
2.2.2 Sự thủy giải: Những
cấu phần ester trong tinh dầu thường dễ bị thủy giải cho ra acid và
alcol khi đun nóng trong một thời gian dài với nước. Do đó, để hạn chế
hiện tượng này, sự chưng cất hơi nước phải được thực hiện trong một thời
gian càng ngắn càng tốt.
2.2.3 Nhiệt độ: Nhiệt độ cao làm phân hủy tinh dầu. Do đó, khi cần thiết phải dùng hơi nước quá nhiệt (trên 100
oC)
nên thực hiện việc này trong giai đoạn cuối cùng của sự chưng cất, sau
khi các cấu phần dễ bay hơi đã lôi cuốn đi hết. Thực ra, hầu hết các
tinh dầu đều kém bền dưới tác dụng của nhiệt nên vấn đề là làm sao cho
thời gian chịu nhiệt độ cao của tinh dầu càng ngắn càng tốt.
Tóm
lại, dù ba ảnh hưởng trên được xem xét độc lập nhưng thực tế thì chúng
có liên quan với nhau và quy về ảnh hưởng của nhiệt độ. Khi tăng nhiệt
độ, sự khuếch tán thẩm thấu sẽ tăng, sự hòa tan tinh dầu trong nước sẽ
tăng nhưng sự phân hủy cũng tăng theo.
Trong công nghiệp, dựa trên thực hành, người ta chia các phương pháp chưng cất hơi nước ra thành ba loại chính:
- Chưng cất bằng nước.
- Chưng cất bằng nước và hơi nước.
- Chưng cất bằng hơi nước.
2.2.3.1 Chưng cất bằng nước: Trong
trường hợp này, nước phủ kín nguyên liệu, nhưng phải chừa một khoảng
không gian tương đối lớn phía bên trên lớp nước, để tránh khi nước sôi
mạnh làm văng chất nạp qua hệ thống hoàn lưu. Nhiệt cung cấp có thể đun
trực tiếp bằng củi lửa hoặc bằng hơi nước dẫn từ nồi hơi vào (sử dụng
bình có hai lớp đáy). Trong trường hợp chất nạp quá mịn, lắng chặt xuống
đáy nồi, lúc đó nồi phải trang bị những cánh khuấy trộn đều bên trong
trong suốt thời gian chưng cất.
Sự
chưng cất này không thích hợp với những tinh dầu dễ bị thủy giải. Những
nguyên liệu xốp và rời rạc rất thích hợp cho phương pháp này. Những cấu
phần có nhiệt độ sôi cao, dễ tan trong nước sẽ khó hóa hơi trong khối
lượng lớn nước phủ đầy, khiến cho tinh dầu sản phẩm sẽ thiếu những chất
này. Thí dụ điển hình là mùi tinh dầu hoa hồng thu được từ phương pháp
chưng cất hơi nước kém hơn sản phẩm tẩm trích vì eugenol và ancol
phenetil nằm lại trong nước khá nhiều, vì thế người ta chỉ dùng phương
pháp này khi không thể sử dụng các phương pháp khác.
2.2.3.2 Ưu điểm: - Quy trình kỹ thuật tương đối đơn giản.
- Thiết bị gọn, dễ chế tạo.
- Không đòi hỏi vật liệu phụ như các phương pháp tẩm trích, hấp thụ.
- Thời gian tương đối nhanh.
2.2.3.3 Khuyết điểm: - Không có lợi đối với những nguyên liệu có hàm lượng tinh dầu thấp.
- Chất lượng tinh dầu có thể bị ảnh hưởng nếu trong tinh dầu có những cấu phần dễ bị phân hủy.
- Không lấy được các loại nhựa và sáp có trong nguyên liệu (đó là những chất định hương thiên nhiên rất có giá trị).
- Trong nước chưng luôn luôn có một lượng tinh dầu tương đối lớn.
- Nhưng tinh dầu có nhiệt độ sôi cao thường cho hiệu suất rất kém.
2.2.4 Thu hồi thêm tinh dầu từ nước chưng: Thường
tinh dầu trong nước chưng nằm dưới hai dạng phân tán và hòa tan. Dạng
phân tán thì có thể dùng phương pháp lắng hay ly tâm, còn dạng hòa tan
thì phải chưng cất lại. Nếu trọng lượng riêng của tinh dầu và nước quá
gần nhau thì có thể thêm NaCl để gia tăng tỉ trọng của nước làm tinh dầu
tách ra dễ dàng.
Trong
phòng thí nghiệm, để chưng cất hơi nước tinh dầu, người ta thường dùng
bộ dụng cụ thủy tinh Clevenger (hình vẽ phần phụ lục) với hai loại ống
hứng tinh dầu, tùy theo tinh dầu nặng hay nhẹ:
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP MỚI TRONG VIỆC LY TRÍCH TINH DẦU:
3.1 Vi sóng: 3.1.1 Đại cương: Vi sóng (micro-onde, microwave) là sóng điện từ lan truyền với vận tốc ánh sáng. Sóng điện từ này được đặc trưng bởi:
- Tần số f, tính bằng Hetz (Hz = cycles/s), là chu kỳ của trường điện từ trong một giây, nằm giữa 300 MHz và 30 GHz.
- Vận tốc c là 300.000 km/giây.
- Độ dài sóng
l (cm) là đoạn đường đi của vi sóng trong một chu kỳ, liên hệ với tần số theo công thức
l = c/f.
Hầu hết các lò vi sóng gia dụng đều sử dụng tần số 2450 MHz, ở tần số này
l = 12,24 cm.
3.1.2 Hiện tượng làm nóng: Một
số phân tử, thí dụ như nước, phân chia điện tích trong phân tử một cách
bất đối xứng. Như vậy các phân tử này là những lưỡng cực có tính định
hướng trong chiều của điện trường. Dưới tác động của điện trường một
chiều, các phân tử lưỡng cực có khuynh hướng sắp xếp theo chiều điện
trường này. Nếu điện trường là một điện trường xoay chiều, sự định hướng
của các lưỡng cực sẽ thay đổi theo chiều xoay đó. Cơ sở của hiện tượng
phát nhiệt do vi sóng là sự tương tác giữa điện trường và các phân tử
phân cực bên trong vật chất. Trong điện trường xoay chiều có tần số rất
cao (2,45x10
9 Hz), điện trường này sẽ gây ra một xáo động ma sát rất lớn giữa các phân tử, đó chính là nguồn gốc sự nóng lên của vật chất.
Với
một cơ cấu có sự bất đối xứng cao, phân tử nước có độ phân cực rất lớn,
do đó nước là một chất rất lý tưởng dễ đun nóng bằng vi sóng. Ngoài ra,
các nhóm định chức phân cực như: -OH, -COOH, -NH
2 … trong các hợp chất hữu cơ cũng là những nhóm chịu sự tác động mạnh của trường điện từ.
Do
đó, những hợp chất càng phân cực càng rất mau nóng dưới sự chiếu xạ của
vi sóng. Việc này có liên quan đến hằng số điện môi của hợp chất đó.
Tóm lại, sự đun nóng bởi vi sóng rất chọn lọc, trực tiếp và nhanh chóng.
Hiện tượng làm nóng vật chất bởi vi sóng
3.1.3 Tính chất: Vi
sóng có đặc tính là có thể đi xuyên qua được không khí, gốm sứ, thủy
tinh, polimer và phản xạ trên bề mặt các kim loại. Độ xuyên thấu tỉ lệ
nghịch với tần số, khi tần số tăng lên thì độ xuyên thấu của vi sóng
giảm. Đối với một vật chất có độ ẩm 50% với tần số 2450 MHz có độ xuyên
là 10 cm. Ngoài ra, vi sóng có thể lan truyền trong chân không, trong
điều kiện áp suất cao …
Năng lượng của vi sóng rất yếu, không quá 10
-6 eV, trong khi năng lượng của một nối cộng hóa trị là 5 eV, do đó bức xạ vi sóng không phải là một bức xạ ion hóa.
Có
một số công trình đã khẳng định được tính vô hại của vi sóng đối với
sinh vật. Chẳng hạn, khi nghiên cứu sự phát triển của enzim trong điều
kiện vi sóng, người ta nhận thấy rằng ảnh hưởng của vi sóng rất giống
ảnh hưởng của các gia nhiệt thông thường.
Vi
sóng cung cấp một kiểu đun nóng không dùng sự truyền nhiệt thông
thường. Với kiểu đun nóng bình thường, sức nóng đi từ bề mặt của vật
chất lần vào bên trong, còn trong trường hợp sử dụng vi sóng, vi sóng
xuyên thấu vật chất và làm nóng vật chất ngay từ bên trong. Vi sóng tăng
hoạt những phân tử phân cực, đặc biệt là nước. Nước bị đun nóng do hấp
thu vi sóng bốc hơi tạo ra áp suất cao tại nơi bị tác dụng, đẩy nước đi
từ tâm của vật đun ra đến bề mặt của nó.
3.1.4 Ly trích dưới sự hỗ trợ của vi sóng: Dưới
tác dụng của vi sóng, nước trong các tế bào thực vật bị nóng lên, áp
suất bên trong tăng đột ngột làm các mô chứa tinh dầu bị vỡ ra. Tinh dầu
thoát ra bên ngoài, lôi cuốn theo hơi nước sang hệ thống ngưng tụ
(phương pháp chưng cất hơi nước) hoặc hòa tan vào dung môi hữu cơ đang
bao phủ bên ngoài nguyên liệu (phương pháp tẩm trích).
Lưu
ý là mức độ chịu ảnh hưởng vi sóng của các loại mô tinh dầu không giống
nhau do kiến tạo của các loại mô khác nhau, ngay khi nguyên liệu được
làm nhỏ. Kết quả này được phản ánh qua thời gian ly trích.
Trong
sự chưng cất hơi nước, việc ly trích tinh dầu có thể thực hiện trong
điều kiện có thêm nước hay không thêm nước vào nguyên liệu (trường hợp
nguyên liệu chứa nhiều nước, đây là đặc điểm của phương pháp chưng cất
hơi nước dưới sự hỗ trợ của vi sóng). Ngoài ra, nước có thể thêm một lần
hoặc thêm liên tục (trường hợp lượng nước thêm một lần không đủ lôi
cuốn hết tinh dầu trong nguyên liệu) cho đến khi sự ly trích chấm dứt.
Ngoài
việc nước bị tác dụng nhanh chóng, các cấu phần phân cực (hợp chất có
chứa oxigen) hiện diện trong tinh dầu cũng bị ảnh hưởng bởi vi sóng.
Ngược lại các cấu phần hidrocarbon ít chịu ảnh hưởng của vi sóng (do
chúng có độ phân cực kém) nên sự ly trích chúng tựa như trong sự chưng
cất hơi nước bình thường nhưng với vận tốc nhanh hơn rất nhiều vì nước
được đun nóng nhanh bởi vi sóng.
Trong
phòng thí nghiệm, chúng tôi đã nghiên cứu, sữa chữa và cải tiến lò vi
sóng gia dụng để cho lò này có thể sử dụng trong cả việc ly trích tinh
dầu bằng phương pháp chưng cất hơi nước, lẫn cho phương pháp tẩm trích ở
áp suất thường. (hình vẽ xem phần phụ lục).
Năm
1998, Luque de Castro và cộng sự đã đưa ra kiểu lò vi sóng tiêu điểm hỗ
trợ cho sự ly trích bằng Soxhlet (FMASE – Focused Microwave Assisted
Soxhlet Extraction) theo hình vẽ trong phần phụ lục. Hệ thống này giúp
cho thời gian ly trích hợp chất thiên nhiên sử dụng Soxhlet giảm xuống
đáng kể và khả năng bảo vệ những hợp chất dễ bị phân hủy tăng lên.
3.2 Siêu âm: 3.2.1 Nguyên tắc: Siêu
âm là âm thanh có tần số nằm ngoài ngưỡng nghe của con người (16 Hz –
18 kHz). Về mặt thực hành, siêu âm được chia làm hai vùng:
- Vùng có tần số cao (5 – 10 MHz), ứng dụng trong y học để chuẩn đoán bệnh.
-
Vùng có tần số thấp hơn (20 – 100 kHz), ứng dụng trong các ngành khác
(kích hoạt phản ứng hóa học, hàn chất dẻo, tẩy rửa, cắt gọt, …) dựa trên
khả năng cung cấp năng lượng của siêu âm.
Siêu
âm cung cấp năng lượng thông qua hiện tượng tạo và vỡ “bọt” (khoảng
cách liên phân tử). Trong môi trường chất lỏng, bọt có thể hình thành
trong nửa chu kỳ đầu và vở trong nữa chu kỳ sau, giải phóng một năng
lượng rất lớn. Năng lượng này có thể sử dụng tẩy rửa chất bẩn ngay trong
những vị trí không thể tẩy rửa bằng phương pháp thông thường, khoan cắt
những chi tiết tinh vi, hoạt hóa nhiều loại phản ứng hóa học, làm chảy
và hòa tan lẫn vào nhau trong việc chế tạo những sản phẩm bằng nhựa
nhiệt dẻo, …
Hiện tượng tạo bọt và vỡ bọt
Trong
lĩnh vực hợp chất thiên nhiên, siêu âm chủ yếu sử dụng để hỗ trợ cho
phương pháp tẩm trích giúp thu ngắn thời gian ly trích. Trong một số
trường hợp, phương pháp siêu âm cho hiệu suất cao hơn phương pháp khuấy
từ. Trong trường hợp tinh dầu vi sự ly trích bằng siêu âm được thực hiện
ở nhiệt độ phòng nên sản phẩm luôn có mùi thơm tự nhiên.
Các thiết bị siêu âm hiện nay chủ yếu bao gồm hai dạng:
- Bồn siêu âm (40 kHz).
- Thanh siêu âm (20 kHz).
Hiện nay trong phòng thí nghiệm chúng tôi chỉ sử dụng bồn siêu âm trong phương pháp tẩm trích.
3.2.2 Bồn siêu âm: Bồn
thường làm bằng inox, bên dưới đáy bồn có gắn những bộ phận phát ra
siêu âm. Một số bồn có trang bị thêm bộ phận gia nhiệt nhưng không cho
phép tăng nhiệt độ lên cao. Bồn siêu âm có ưu điểm là năng lượng được
phân bố đồng đều, thuận tiện thao tác, và dễ sử dụng nhưng lại có khuyết
điểm là chỉ có một tần số cố định, đôi khi không kiểm soát được nhiệt
độ (khi siêu âm trong một thời gian dài), không thực hiện được ở nhiệt
độ thấp.
Hiện
nay bồn siêu âm được chế tạo với nhiều kích thước lớn nhỏ khác nhau để
phù hợp với vật chứa bên trong. Khi sử dụng bồn siêu âm, nhớ cho một ít
chất hoạt động bề mặt vào lượng nước trong bồn để gia tăng khả năng siêu
âm. Bình chứa nguyên liệu cần đổ ngập dung môi với mức dung môi nên
thấp hơn hoặc ngang bằng lớp nước bên ngoài.